Thứ Sáu, 10 tháng 5, 2013

Điều trị Viem gan c man tinh tại vùng Châu Á – Thái Bình Dương


Điều trị Viem gan c man tinh tại vùng Châu Á – Thái Bình Dương

Đáp ứng điều trị, thiếu máu và tăng ALT trong quá trình Dieu tri viem gan c man tinh.

(Tóm tắt báo cáo của BS. R.Guan, Trung tâm Y khoa Mt.Elizabeth, Singapore tại Hội thảo quốc tế về Gan mật, Thái Lan, ngày 20/02/2011)
Trên thế giới,hiện có hơn 170 triệu người bị viêm gan C mãn tính, và mỗi năm có thêm khoảng 4 triệu người bị nhiễm.Viêm gan C là 1 trong những nguyên nhân hàng đầu của xơ gan và ung thư gan, chỉ sau viêm gan B mạn tính ở các nước châu Á, ngoại trừ Nhật bản. Sau 20 năm bị nhiễm HCV,15% nam giới và 5% nữ giới bị xơ gan. Trong số những người bị xơ gan, có đến 4% bị ung thư gan. Hiện nay, viêm gan C là nguyên nhân hàng đầu của ghép gan.

Viêm gan c mãn tính tại vùng Châu Á:

Trong vùng châu Á-Thái bình dương, tỷ lệ người có kháng thể HCV (Anti-HCV) chiếm từ 0.3% (New Zealand) đến 5.6% (Thái lan). Những nước có tỷ lệ cao (lên đến 58%) là Nhật bản, Trung đông, Việt nam và Đài loan. Cũng như ở phương Tây, peg-interferon+Ribavirin là trị liệu chuẩn cho bệnh nhân vùng châu Á –Thái bình dương. Rất có thể người châu Á có tỷ lệ đáp ứng lâu dài về virut (SVR) cao hơn người Caucase khi sử dụng trị liệu này: 70% với người nhiễm HCV genotyp 1(HCV-1), 90% với người nhiễm HCV genotyp 2(HCV-2) và HCV genotyp 3(HCV-3), 65% với người nhiễm HCV genotyp 4(HCV-4) và khoảng 80% với người nhiễm HCV genotyp 6 (HCV-6). Gần đây đã phát hiện 1 đa hình về gen gần gen IL28B, ghi mã interferon-g-3(INF-g-3) trên nhiễm sắc thể 19, rs12979860 có liên quan đến đáp ứng với trị liệu.
Những người có genotyp CC có SVR cao hơn nhiều khi điều trị viem gan c man tinh với IFN so với những người có genotyp TT. Hay gặp genotyp CC ở người Đông Á hơn những vùng khác trên thế giới. Những người có số lượng virut thấp (<400000 IU/ml) và có đáp ứng nhanh về virut (RVR=không phát hiện HCV-RNA từ tuần thứ 4) có thể được điều trị ngắn ngày hơn. Bệnh nhân Á châu bị thiếu máu do trị liệu nhiều hơn bệnh nhân người Caucase vì đã bị thiếu máu do dinh dưỡng và thalassemia từ trước khi điều trị. Giảm liều thuoc tri viem gan c Ribavirin đến liều lượng cao nhất có thể chịu đựng được và tiêm Erythropoietine nếu cần, có thể giúp duy trì SVR ở những bệnh nhân này. Chưa đến 5% bệnh nhân có ALT tăng cao trong quá trình điều trị, có lẽ do nhạy cảm với Ribavirin.
BS Nguyễn Đình Ái

Xem thêm : Viêm gan men gan caothuoc tri viem gan cdieu tri viem gan c chua benh ve gan capcach chua benh nong gan

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét